Hiện tôi đang gặp phải vấn đề về Tung Kinh Cau An - Nhờ các bạn và mọi người tư vấn, giải đáp giúp đỡ mình vấn đề trên hiện mình đang chưa tìm được xử lý tối ưu. Về từ nguyên, khái niệm “ “cầu siêu” có nghĩa là “cầu cho người chết được siêu độ, được sanh về thế giới của chư Phật.”Cầu siêu là Vì thế, quý vị an tâm niệm Phật chân thành để ‘siêu độ’ cho người thân quá cố của mình. Bài viết mở rộng dưới đây về việc siêu độ cho hương linh trong vòng 49 ngày sau khi chết và sau 49 ngày hoặc thời gian dài sau đó nhằm giúp quý vị hiểu rõ quan điểm siêu độ của Phật giáo và các vị Thánh tăng. Thông thường, bài kinh cầu siêu cho người đã chết được sử dụng liên tục trong vòng 49 ngày tiên phong ( tính từ thời gian người thân trong gia đình qua đời ). Nhưng có rất nhiều mái ấm gia đình duy trì việc tụng kinh này cho đến hết 100 ngày . Cho thuê nhà ở 53 Kim Mã Thượng, Ba Đình, HN. Thông tin chi tiết. - Diện tích là 46m2 x 5 tầng, mặt tiền siêu rộng. - Thiết kế thông sàn cầu thang wc ở cuối nhà. - Trong nhà mới có nóng lạnh và 1 điều hòa. - Khu sầm uất nhiều người nước ngoài sinh sống và làm việc, ngõ rộng ô tô đi lại thoải mãi rất kpD9j0g. NỘI DUNG BÀI VIẾT Tại sao phải tụng kinh cầu siêu cho người chết? Nguồn gốc của nghi thức cầu siêu Ai mới có đủ sức mạnh để cầu siêu? Cách tụng kinh cầu siêu cho người chết tại nhà Việc tụng kinh cầu siêu cho người chết là một việc làm thể hiện sự tri ân, lòng thành của con cái đối với ông bà cha mẹ tổ tiên. Cầu có nghĩa là cầu nguyện, siêu là siêu thoát. Cầu siêu có nghĩa là cầu nguyện để mong cho linh hồn của người chết sớm được siêu thoát. Nếu còn đang bị đọa đày ở cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì sẽ sớm được giảm nhẹ tội và vãng sinh về nơi Tịnh độ của Phật A Di Đà. Việc tụng kinh cầu siêu cho người chết là một việc làm quan trọng mà các Phật tử nên thực hiện Kinh Phật cho biết rằng, khi con người ở trong trạng thái thân trung ấm thì các vong linh sẽ trở nên vô cùng thông minh, lanh lợi hơn gấp nhiều lần so với lúc họ còn sống. Họ mang trong mình nhiều năng lực, có thể đọc được tâm của người khác. Biết được trong gia đình có thực sự đau buồn hay vui sướng trước cái chết của họ. Vì thần thức quá tinh thông nên nếu như phát hiện ra người thân trong gia đình không quan tâm đến cảnh khổ của họ thì họ lại càng đau lòng. Nguồn gốc của nghi thức cầu siêu Nguồn gốc của việc tụng kinh cầu siêu cho người chết bắt nguồn từ sự tích của Tôn giả Mục Kiền Liên. Trong Kinh có kể lại rằng khi xưa mẹ của Mục Kiền Liên là người không tin vào Tam Bảo nên bà thường phỉ báng chư tăng, sống lãng phí sa hoa, không tiết kiệm. Do đó khi chết đi bà bị đọa đày xuống cõi địa ngục. Tôn giả Mục Kiền Liên khi ấy đã dùng phép thần thông của mình để soi khắp các cõi trời đất mới tìm thấy được mẹ mình. Khi biết được mẹ mình đang phải chịu sự thống khổ nơi địa ngục, ngài đã đến cầu xin Đức Phật để tìm cách cứu mẹ. Đức Phật nói rằng nhân dịp chư Tăng sau 3 tháng an cư tịnh tiên tu tập 3 phần giới, định, tuệ, tích lũy đầy đủ công đức nên cúng dường với tâm thanh tịnh để chư Tăng chú nguyện vào phẩm vật cúng dường. Mục Kiền Liên làm theo lời Phật dạy và đã thành công cứu được mẹ mình thoát khỏi địa ngục. Nguồn gốc của việc tụng kinh cầu siêu cho người chết bắt nguồn từ sự tích của Tôn giả Mục Kiền Liên Kể từ đó nghi thức cầu siêu cho người chết bắt đầu được hình thành. Các Phật tử có lòng hiếu thảo noi theo tấm gương của Mục Kiền Liên để cầu nguyện cho ông bà cha mẹ sớm được vãng sinh nơi cửa Phật. Chúng ta vốn dĩ không có phép thần thông nên không biết người thân của chúng ta sau khi chết sẽ đọa về đâu. Nhưng chúng ta hoàn toàn có thể tụng kinh cầu siêu cho người chết trong thời gian thân trung ấm hoặc vào ngày rằm tháng 7 hàng năm để giúp tăng phước lành hoặc làm giảm nhẹ nghiệp báo của họ. Ai mới có đủ sức mạnh để cầu siêu? Người có đủ sức mạnh để tụng kinh cầu siêu cho người chết chính là các vị chư Tăng sau 3 tháng an cư kiết hạ, thanh tịnh giới phẩm, thành tâm cầu nguyện Phật pháp thì mới có đủ sức mạnh để phá cửa địa ngục, để các tội nhân ở đó được dự lễ cầu siêu vào rằm tháng 7 âm lịch. Đức Phật dạy rằng, trong màu Vu Lan báo hiếu, tất cả chư tăng mang trên mình trọng trách giúp cho các phật tử thực hành và tích lũy công đức để có thể siêu độ cho ông bà cha mẹ của mình. Khi thực hành lễ cầu siêu, trước hết chúng ta nương công đức của vị chư tăng để nguyện cầu cho người thân được siêu thoát. Song chúng ta không thể ỷ lại hoàn toàn trách nhiệm cho chúng Tăng. Các Phật tử là con cháu thì cần có sự kết nối với tâm thức người đã chết. Họ sẽ chỉ liên kết với năng lượng tâm của các bạn, còn các chư Tăng chỉ mở rộng lòng từ, để năng lượng từ bi được trải rộng khắp nơi. 6 ngả luân hồi trong Phật giáo Những người được cầu siêu có hưởng được sự lợi lạc từ những nguồn năng lượng này hay không còn tùy thuộc vào sự kết nối về quan hệ huyết thống với con cháu trong buổi lễ. Chúng ta ngồi đây tụng Kinh cầu siêu tạo nên nguồn năng lượng tích cực bằng cái tâm thành kính. Bởi công đức tụng kinh, mỗi câu niệm Phật tạo nên trong không gian nguồn năng lực rất an lành. Cách tụng kinh cầu siêu cho người chết tại nhà Dưới đây là bài kinh cầu siêu cho người chết mà các Phật tử có thể tham khảo Niệm hương lễ bái Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm Tịnh pháp – giới chơn – ngôn Án lam xóa ha. 3 lần Tịnh tam – nghiệp chơn – ngôn Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. 3 lần Cúng hương Thắp ba cây hương, quỳ ngay thẳng, cầm hương ngang trán niệm lớn bài cúng hương Nguyện thử diệu hương vân, Biến mãn thập phương giới, Cúng dường nhứt-thế Phật, Tôn pháp chư Bồ tát, Vô biên Thanh văn chúng, Cập nhứt thế Thánh-Hiền, Duyên khởi quang minh đài, Xứng tánh tác Phật-sự, Phổ huân chư chúng-sanh, Giai phát Bồ-ề tâm, Viễn-ly chư vọng-nghiệp, Viên-thành vô-thượng đạo. Xá 3 xá rồi đọc bài kỳ nguyện Kỳ nguyện Tư thời đệ-tử chúng đẳng phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng-danh, tập thử công-đức, nguyện thập-phương thường-trú Tam-bảo, Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, tiếp dẫn đạo-sư A-Di-à Phật, từ-bi tiếp độ hương linh….. pháp-danh….. phiền-não đoạn-diệt, nghiệp-chướng tiêu trừ, tốc xả mê đồ, siêu sanh Tịnh-độ, ngưỡng kỳ chư Phật từ-bi phóng quang tiếp độ hương-linh vãng sanh Cực-lạc quốc. Tán phật Pháp vương vô-thượng tôn Tam-giới vô luân thất Thiên nhơn chi ạo-sư Tứ-sanh chi từ-phụ Ư nhứt niệm quy-y Năng diệt tam-kỳ nghiệp Xưng dương nhược tán-thán Ức kiếp mạc năng tận. ứng dậy cầm hướng lên lư rồi chắp tay đứng thẳng và niệm lớn Quán tưởng Năng lễ, sở lễ tánh không tịch, Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì, Ngã thử đạo tràng như ế-châu, Thập phương chư Phật ảnh hiện trung, Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền, ầu diện tiếp túc quy mạng lễ. – Chí tâm đảnh lễ Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trú Tam-Bảo. 1 lạy – Chí tâm đảnh lễ Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, ương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, ại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, ại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-Pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. 1 lạy – Chí tâm đảnh lễ Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới ại-từ ại-bi A-Di-à Phật, ại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, ại-Thế-Chí Bồ-tát, ại-nguyện ịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-tịnh ại-hải-chúng Bồ-tát. 1 lạy ứng ngay, vô chuông mõ và đồng tụng Tán lư hương Lư hương sạ nhiệt, Pháp giới mông huân, Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân, Thành ý phương ân, Chư Phật hiện toàn thân. Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-tát ma-ha-tát. 3 lần Chú đại bi Nam-mô ại-Bi Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. 3 lần Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa. Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. 3 lần Nam-mô Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. 3 lần Khai kinh kệ Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như-Lai chơn thiệt nghĩa. Kinh A Di Đà NAM-MÔ LIÊN-TRÌ HẢI-HỘI PHẬT BỒ-TÁT. 3 lần PHẬT THUYẾT A-DI-À KINH Như thị ngã văn Nhứt thời Phật tại Xá-vệ quốc, Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên, dữ đại Tỳ-kheo tăng, thiên nhị bá ngũ thập nhơn câu, giai thị đại A-La-hán, chúng sở tri thức Trưởng-lão Xá-Lợi-Phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Câu-hy-la, Li-bà-đa, Châu-lợi bàn-đà-dà, Nan-đà, A-Nan-đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề, Tân-đầu-lô-phả-la-đọa, Ca-lưu-đà-di, Ma-ha Kiếp-tân-na, Bạc-Câu-la, A-nâu-lâu-đà, như thị đẳng chư đại đệ tử, tinh chư Bồ-tát ma-ha-tát. Văn-thù Sư-lợi pháp-vương-tử, A-dật-đa Bồ-tát, Càng à-ha-đề Bồ-tát, Thường-tinh-tấn Bồ-tát, dữ như thị đẳng, chư đại Bồ-tát; cập Thích-đề-hoàn nhơn đẳng, vô-lượng chư thiên, đại-chúng câu. Nhĩ thời Phật cáo Trưởng lão Xá-Lợi-Phất “Tùng thị Tây-phương quá thập vạn ức Phật-độ, hữu thế-giới danh viết Cực-lạc kỳ độ hữu Phật hiệu A-Di-à, kim hiện tại thuyết-pháp”. Xá-Lợi-Phất! Bỉ độ hà cố danh vi Cực-lạc? Kỳ quốc chúng-sanh vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc, cố danh Cực-lạc. Hựu Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ, thất trùng lan thuẫn, thất trùng la-võng, thất trùng hàng thọ, giai thị tứ bảo, châu tráp vi nhiễu, thị cố bỉ quốc danh vi Cực-lạc. Hựu Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ, hữu thất bảo trì, bát công-đức thủy, sung mãn kỳ trung, trì để thuần dĩ kim sa bố địa, Tứ biên giai đạo, kim ngân, lưu-ly, pha-lê hiệp thành; thượng hữu, lâu các, diệc dĩ kim, ngân, lưu-ly, pha-lê, xa-cừ, xích-châu, mã-não nhi nghiêm sức chi. Trì chung liên-hoa, đại như xa luân, thanh sắc thanh quang, huỳnh sắc huỳnh quang, xích sắc xích quang, bạch sắc bạch quang, vi diệu hương khiết. Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm. Hựu Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quốc-độ thường tác thiên nhạc, huỳnh kim vi địa, trú dạ lục thời, vũ thiên mạn-đà-la hoa, kỳ độ chúng-sanh thường dĩ thanh đán, các dĩ y-kích thạnh chúng diệu hoa cúng dường tha phương thập vạn ức Phật, tức dĩ thực thời hườn đáo bổn quốc, phạn thực kinh hành. Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang-nghiêm. Phục thứ Xá-Lợi-Phất! Bỉ-quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu, tạp sắc chi điểu Bạch-hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng-mạng chi điểu, thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất hòa nhã âm, kỳ âm diễn xướng ngũ-căn, ngũ-lực, thất-bồ-đề phần, bát-thánh-đạo phần, như thị đẳng pháp, kỳ độ chúng-sanh văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Xá-Lợi-Phất! Nhữ vật vị thử điểu, thiệt thị tội báo sở sanh. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc-độ vô tam ác đạo. Xá-Lợi-Phất! Kỳ Phật quốc-độ thượng vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thiệt, thị chư chúng điểu, giai thị A-Di-à Phật dục linh pháp-âm tuyên lưu biến hóa sở tác. Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quốc-độ vi phong xuy động, chư bảo hàng thọ, cập bảo la võng, xuất vi diệu âm, thí như bá thiên chủng nhạc đồng thời cu tác, văn thị âm giả, tự nhiên giai sanh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm. Xá-Lợi-Phất! Kỳ Phật quốc-độ, thành tựu, như thị công-đức trang-nghiêm. Xá-Lợi-Phất! Ư nhữ ý vân hà? Bỉ Phật hà cố hiệu A-Di-à? Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quang-minh vô-lượng, chiếu thập phương quốc, vô sở chướng ngại, thị cố hiệu vi A-Di-à. Hựu Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật thọ mạng, cập kỳ nhơn dân, vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, cố danh A-Di-à. Xá-Lợi-Phất! A-Di-à Phật thành Phật dĩ lai, ư kim thập kiếp. Hựu Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật hữu vô-lượng vô-biên Thinh-văn đệ-tử, giai A-la-hán, phi thị toán số chi sở năng tri; chư Bồ-tát chúng diệc phục như thị. Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quốc độ thành-tựu như thị công-đức trang-nghiêm. Hựu Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc-độ chúng-sanh sanh giả, giai thị a-bệ-bạt-trí, kỳ trung đa hữu nhứt sanh bổ xứ, kỳ số thậm đa phi thị toán số, sở năng tri chi, đản khả dĩ vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ thuyết. Xá-Lợi-Phất! Chúng-sanh văn giả, ưng đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Sở dĩ giả hà? ắc dữ như thị chư thượng thiện-nhơn câu hội nhứt xứ. Xá-Lợi-Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện-căn phước-đức nhơn-duyên, đắc sanh bỉ quốc. Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nư nhơn, văn thuyết A-Di-à Phật, chấp trì danh-hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt, nhứt tâm bất loạn. Kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A-Di-à Phật dữ chư Thánh-chúng, hiện tại kỳ tiền, thị nhơn chung thời, tâm bất điên-đảo, tức đắc vãng-sanh A-Di-à Phật Cực-lạc quốc-độ. Xá-Lợi-Phất! Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn, nhược hữu chúng-sanh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ. Xá-Lợi-Phất! Như ngã kim giả, tán thán A-Di-à Phật bất khả tư nghị công-đức chi lợi. ông phương diệc hữu A-súc-bệ Phật, Tu-di-tướng Phật, ại-tu-di Phật, Tu-di-quang Phật, Diệu-âm Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ-niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Nam phương thế-giới hữu Nhựt-Nguyệt-ăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, ại-Diệm-Kiên Phật, Tu-Di-ăng Phật, Vô-Lượng Tinh Tấn Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Tây-Phương thế-giới hữu Vô-Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, ại-Quang-Phật, ại-Minh Phật, Bảo-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Bắc phương thế-giới, hữu Diệm-Kiên Phật, Tối-Thắng-AÂm Phật, Nan-Thơ Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng Minh Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ-niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Hạ phương thế-giới, hữu Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, ạt-Ma Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Thượng phương thế-giới, hữu Phạm-AÂm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, ại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc-Bảo-Hoa-Nghiêm thân Phật, Ta-La-Thọ-Vương Phật, Bảo-Hoa-ức Phật, Kiến-Nhứt-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! “Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”? Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn văn thị kinh thọ trì giả, cập văn chư Phật danh giả, thị chư thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn, giai vi nhứt-thiết chư Phật chi sở hộ niệm, giai đắc bất thối chuyển ư a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Thị cố Xá-Lợi-Phất! Nhữ đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ, cập chư Phật sở thuyết. Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu nhơn dĩ phát nguyện, kim phát-nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A-Di-à Phật quốc giả, thị chư nhơn đẳng giai đắc bất thối chuyển ư a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, ư bỉ quốc độ nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh. Thị cố Xá-Lợi-Phất! Chư thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn, nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện sanh bỉ quốc độ. Xá-Lợi-Phất! Như ngã kim giả, xưng tán chư Phật bất khả tư nghị công-đức, bỉ chư Phật đẳng, diệc xưng tán ngã bất khả tư nghị công-đức nhi tác thị ngôn “Thích-Ca Mâu-Ni Phật năng vi thậm nan hy hữu chi sự, năng ư Ta-bà quốc-độ ngũ-trược ác thế; kiếp-trược, kiến-trược, phiền-não trược, chúng-sanh trược, mạng-trược trung đắc a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, vị chư chúng-sanh, thuyết thị nhứt thiết thế-gian nan tín chi pháp. Xá-Lợi-Phất! ương tri ngã ư ngũ-trược ác thế, hành thử nan sự, đắc a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, vị nhứt thiết thế-gian thuyết thử nan tín chi pháp, thị vi thậm nan. Quảng cáo Phật thuyết thử kinh dĩ, Xá-Lợi-Phất cập chư Tỳ-kheo, nhứt thiết thế-gian, Thiên, Nhơn, A-tu-la đẳng, văn Phật sở thuyết, hoan-hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ. Phật thuyết A-Di-à kinh. A Di Đà Phật tán Tây-phương Giáo-Chủ Tịnh-độ năng Nhơn, Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh, Phát nguyện thệ hoằng thâm. Thượng-phẩm thượng-sanh, ồng phó Bửu-Liên thành. Chí tâm đảnh lễ Mỗi câu đều đọc 1 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Lượng-Quang Như-Lai. 2 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Biên-Quang Như-Lai. 3 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Ngại-Quang Như-Lai. 4 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-ối-Quang Như-Lai. 5 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Diệm-Vương-Quang Như-Lai. 6 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Thanh-Tịnh-Quang Như-Lai. 7 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Hoan-Hỉ-Quang Như-Lai. 8 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Trí-Huệ-Quang Như-Lai. 9 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Nan-Tư-Quang Như-Lai. 10 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Bất-oạn-Quang Như-Lai. 11 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Xưng-Quang Như-Lai. 12 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Siêu-Nhật-Nguyệt-Quang Như-Lai. Ma ha bát nhã ba la mật đa tâm kinh Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị. Xá-Lợi-Tử ! Thị chư Pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão-tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên-đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại-thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư. Cố thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha. 3 lần Vãng sanh quyết định chơn ngôn Nam-mô a di đa bà dạ, a tha dà đa dạ, a địa dạ tha. A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tì ca lan đế, A di rị đa, tì ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha. Tán Phật A-Di-à Phật thân kim sắc Tướng hảo quang-minh vô đẳng-luân Bạch hào uyển-chuyển ngũ tu-di Cám mục trừng thanh tứ đại hải. Quang trung hóa Phật vô số ức, Hóa Bồ-tát chúng diệc vô-biên Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn. Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới đại-từ đại-bi A-Di-à Phật. Nam-mô A-Di-à Phật. Niệm nhiều ít tùy ý Nam-mô ại-bi Quán-thế-âm Bồ-tát. 3 lần Nam-mô ại-Thế-Chí Bồ-tát. 3 lần Nam-mô ại-Tạng Vương Bồ-tát. 3 lần Nam-mô Thanh-tịnh ại-Hải chúng Bồ-tát. 3 lần Sám thập phương Thập phương Tam-thế Phật A-Di-à đệ nhứt, Cửu phẩm độ chúng-sanh Oai-đức vô cùng cực, Ngã kim đại quy-y. Sám-hối tam nghiệp tội, Phàm hữu chư phước thiện, Chí tâm dụng hồi-hướng. Nguyện đồng niệm Phật nhơn, Cảm ứng tùy thời hiện, Lâm chung Tây-phương cảnh, Phân-minh tại mục tiền, Kiến văn giai tinh tấn, ồng sanh Cực-lạc quốc, Kiến Phật liễu sanh-tử, Như Phật-độ nhứt-thiết, Vô-biên phiền-não đoạn, Vô-lượng pháp môn tu; Thệ nguyện độ chúng-sanh, Tổng giai thành Phật đạo; Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng, Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng, Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí. Mười đại nguyện Quỳ đọc ệ-tử chúng đẳng Tùy-thuận tu tập Phổ-Hiền Bồ-tát Thập chủng đại nguyện Nhứt giả lễ kính chư Phật, Nhị giả xưng tán Như-Lai, Tam giả quảng tu cúng-dường, Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng, Ngũ giả tùy-hỷ công-đức, Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân, Thất giả thỉnh Phật trụ thế, Bát giả thường tùy Phật học, Cửu giả hằng thuận chúng-sanh, Thập giả phổ giai hồi-hướng. Hồi hướng Phúng kinh công-đức thù thắng hạnh, Vô biên thắng phước giai hồi-hướng, Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh, Tốc vãng vô-lượng-quang Phật sát. Nguyện tiêu tam-chướng trừ phiền-não, Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu, Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ. Thế thế thường hành Bồ-tát đạo. Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung, Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu, Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh, Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ. Nguyện dĩ thử công-đức, Phổ cập ư nhứt thiết, Ngã đẳng dữ chúng-sanh, Giai cộng thành Phật-đạo. Thượng lai Vị chủ lễ xướng một mình như sau ệ-tử chúng đẳng, cung tựu Phật tiền, phúng tụng ại-thừa kinh chú, cập niệm Phật công đức, chuyên vì kỳ siêu hương linh….. Pháp danh….. tốc xả mê-đồ, siêu sanh Tịnh-độ. Phục nguyện Nhứt thành thượng đạt, vạn tội băng tiêu, nguyện hương linh đắc độ cao-siêu, kỳ gia-quyến hàm triêm lợi-lạc. Phổ nguyện Âm siêu dương thới, pháp giới chúng-sanh, tình dữ vô tình, tề thành Phật đạo. Nam-mô A-Di-à Phật. ồng niệm Tam quy y Tự quy-y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại-đạo, phát vô-thượng tâm. 1 lạy Tự quy-y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh-tạng, trí huệ như hải. 1 lạy Tự quy-y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống-lý đại-chúng, nhứt thiết vô ngại. 1 lạy Xem thêm Tìm hiểu về tứ vô lượng tâm Từ Bi Hỷ Xả trong đạo Phật Tụng kinh cho người mới mất là việc ai cũng có thể làm. Chỉ cần trong suốt thời gian bao nhiêu ngày tụng kinh đó Bạn ăn chay, giữ ngũ giới, kiêng cử Ngũ vị tân và có một nơi sạch sẽ, yên tĩnh là được. Vong linh nhờ nơi công đức tụng kinh này sẽ sớm được vãng sanh về cõi lành. Lại bạn tự mình tụng kinh cho người thân là tốt nhất, đừng nhờ thầy gọi thợ làm chi, tốn kém và chẳng ích lợi gì cho người đã khuất đâu. Tại sao thế? Bởi thời mạt pháp này thỉnh được bậc tu hành chân chính đến giúp là vô cùng khó. Đa phần tụng kinh đám là để lấy tiền. Mà người tụng đã dính vào danh lợi thì tâm không chí thành, tâm không chí thành thì tụng kinh không thể cảm ứng được! Thời gian gần đây nhiều bạn đọc nhắn hỏi về vấn đề này. Mỗi người một hoàn cảnh, một thắc mắc riêng, nhưng tựu trung lại đều là người sơ cơ nên không nắm vững được phương pháp…Nguyện người hữu duyên đọc bài này mà nắm rõ được phương pháp; lại phát tâm chân chánh học Phật để người còn lẫn người mất cùng được lợi lạc, cùng lìa khổ được vui! Kinh Địa Tạng. Chú Đại Bi Tâm Đà Ra Ni. Cách niệm Phật tại nhà. Cách tụng kinh tại nhà. Thế nào là Tự lực và Tha lực. Cách trị khóc dạ đề linh nghiệm nhất. Hành Dịch Bệnh quỷ vương Lệ Quỷ Cách tụng kinh cho người mới mất * Người thân của ta mới mất đi, ta đau lòng, thương tiếc, ta muốn làm điều gì đó lợi lạc cho người đã khuất mà chẳng biết làm gì hoặc làm thế nào là tốt nhất cho họ. Ta cũng chưa bao giờ biết được rằng Họ đang tột cùng trong nỗi hoang mang, cô đơn và đói khổ! Họ chỉ mong con cháu có thể làm điều gì đó giúp đỡ cho họ mà vô phương báo cho chúng biết. “Bởi chúng cũng như ta, lúc còn sống luôn nghĩ rằng chết là hết. Nào có biết chết rồi lại đau đớn, đói khát và vất vưởng như thế này đâu!?” Bạn thân mến, nếu bạn chẳng tin nhân quả, chẳng tin Phật pháp cũng xin một lần đọc qua bài này. Cũng gắng cho con mình đọc qua lấy một lượt. Chỉ một việc bé nhỏ, mất chưa đến 15 phút và bạn cũng chẳng tốn kém tiền bạc gì. Thế nhưng 15 phút hôm nay có thế là cứu cánh cho bạn sau này đấy! Trước khi tụng kinh cho người mới mất, ta cần nắm được kiến thức cơ bản về cái chết, thân trung ấm, các cảnh giới….Vâng, mời bạn! Người đời thấy tắt hơi cho là đã chết, nhưng không, tắt hơi chỉ là bước khởi đầu của tiến trình chết. Đây là quá trình xảy ra sau khi một người đã tắt hơi. Tiến trình này được chia làm hai giai đoạn Sự tan rã bên ngoài của Tứ đại và Sự tan rã bên trong của nội tâm. Sự tan rã bên ngoài của Tứ đại Sự tan rã của tứ đại là một điều vô cùng kinh khủng, theo “Tạng thư sống chết” thì Sự tan rã bên ngoài xảy ra khi các giác quan và tứ đại phân tán. Chúng ta thực sự kinh qua điều này như thế nào khi chết ? iều trước tiên chúng ta có thể ý thức là các giác quan ta ngưng hoạt động như thế nào. Nếu người đứng xung quanh giường ta đang nói chuyện, sẽ đến một lúc ta không thể nghe ra một lời nào. ây là dấu hiệu nhĩ thức đã ngưng hoạt động. Ta nhìn một vật trước mặt, mà chỉ có thể thấy hình dạng lờ mờ, không rõ chi tiết. ấy là dấu hiệu nhãn thức đã suy. Và việc cũng xảy ra tương tự đối với các khả năng ngửi, nếm, sờ. Khi các giác quan không còn được cảm nhận một cách trọn vẹn, đó là giai đoạn đầu tiên của tiến trình tan rã. Bốn giai đoạn tan rã kế tiếp đi kèm với sự tan rã của bốn đại Sự tan rã của ịa đại Thân xác chúng ta khởi sự mất hết sức mạnh. Chúng ta kiệt quệ, không còn chút năng lực nào. Không thể đứng lên, ngồi thẳng, hay cầm bất cứ vật gì. Ta không còn giữ được cái đầu của ta. Ta cảm thấy như mình đang té xuống, đang nhận chìm xuống đất, hay đang bị một sức nặng ghê gớm nghiền nát. Kinh điển mô tả như là trái núi khổng lồ đang ép xuống người ta, và ta đang bị nó nghiền nát. Ta cảm thấy nặng nề, khó chịu trong bất cứ tư thế nào. Ta có thể yêu cầu đỡ ta lên, chồng gối cao lên, lấy hết mền trên người ra. Màu da của ta phai nhạt và một màu tái xanh xuất hiện. Má ta hóp lại, và những vết đen xuất hiện trên răng. Càng lúc ta càng thấy khó mở mắt nhắm mắt. Khi sắc uẩn phân tán, ta trở nên yếu đuối mong manh. Tâm ta giao động, nói nhảm, nhưng rồi lại chìm vào hôn trầm. ấy là những dấu hiệu địa đại đang rút vào thủy đại. iều này có nghĩa rằng gió liên hệ đến địa đại đang trở thành ít có khả năng cung cấp một nền tảng cho ý thức và khả năng của thủy đại bây giờ rõ rệt hơn. Bởi thế, “dấu hiệu bí mật” xuất hiện trong tâm lúc đó là thấy một hình ảnh chập chờn. Sự tan rã của Thủy đại Chúng ta khởi sự mất khả năng kiểm soát chất lỏng trong thân. Mũi ta bắt đầu chảy nước, và miệng rỏ nước miếng. Có thể có nước mắt chảy ra, và ta cũng có thể mất hết sự tự chế. Ta không thể nào di động cái lưỡi. Mắt ta khởi sự cảm thấy khô cạn trong lỗ mắt. Môi ta thụt vào, không còn chút sắc máu; miệng và cổ họng bế tắc. Những lỗ mủi ta lún vào, và ta cảm thấy rất khát nước. Ta run rẩy, co giật. Mùi tử khí bắt đầu phảng phất xung quanh. Khi thọ uẩn phân tán, thì những cảm giác của thân yếu dần ; khi khổ khi vui ; lúc nóng lúc lạnh. Tâm ta đâm ra mờ mịt, bất mãn, cáu tức, và nóng nảy. Một vài kinh điển nói chúng ta cảm thấy như mình bị dìm trong đại dương hay cuốn trôi trong dòng nước lớn. Thủy đại đang tan rã vào hỏa đại, bây giờ hỏa đại thắng lướt và có khả năng nâng đỡ tâm thức. Bởi thế, “dấu hiệu bí mật” là người sắp chết thấy một đám mờ như khói cuộn. Sự tan rã của Hỏa đại Miệng và mũi chúng ta hoàn toàn khô cạn. Tất cả hơi ấm trong cơ thể bắt đầu mất dần, từ chân tay cho đến tim. Có thể có một luồng khói xuất từ đỉnh đầu. Hơi thở lạnh giá khi qua miệng và mũi. Ta không còn có thể uống hay tiêu hóa bất cứ thứ gì. Tưởng uẩn đang phân tán, và tâm ta lơ lửng giữa sáng suốt và mê mờ. Ta không thể nhớ được tên bà con, bè bạn, hay nhận ra họ là ai. Càng lúc ta càng khó nhận ra cái gì bên ngoài, vì âm thanh và cái thấy lẫn lộn. Kalu Rinpoche viết “ối với người sắp chết, kinh nghiệm bên trong là như thể bị nuốt chửng trong một ngọn lửa lớn, ở giữa một cái hỏa lò hừng hực, hay toàn thế giới đang bị thiêu đốt”. Hỏa đại đang tan vào phong đại, nên bây giờ nó không có thể làm nền tảng cho tâm thức được nữa, mà khả năng của phong đại thì rõ rệt hơn. Bởi thế dấu hiệu bí mật là những đóm sáng chập chờn trên một ngọn lửa mở ra, như những con đom đóm. Sự tan rã của Phong đại Càng lúc càng khó thở. Không khí dường như thoát ra ngõ yết hầu chúng ta. Chúng ta khởi sự thở hào hển. Nhưng hơi thở vào càng lúc càng ngắn và khó nhọc, hơi thở ra càng lúc càng dài. Mắt chúng ta trợn trừng lên, và chúng ta hoàn toàn bất động. Khi hành uẩn phân tán, tâm trở nên hoang dã, không biết gì về thế giới bên ngoài. Mọi sự trở nên một khối mờ mịt. Cảm giác liên lạc cuối cùng của chúng ta với hoàn cảnh vật lý đang tan mất. Chúng ta khởi sự có những ảo giác và thấy các cảnh tượng Nếu trong đời ta đã tạo nhiều nghiệp ác, ta có thể trông thấy những hình thù ghê rợn. Những ám ảnh và những giây phút kinh hãi của đời ta bây giờ quay lại, và có khi chúng ta cố la lên vì kinh hoàng. Nếu chúng ta đã sống đời có lòng tử tế xót thương, thì chúng ta có thể kinh nghiệm những cảnh thiên đường đầy hỷ lạc, và “gặp” những bạn bè thân yêu, hoặc những bậc giác ngộ. Với những người đã sống đời lương thiện, thì khi chết có sự an bình thay vì hãi sợ. * Kallu Rinpoche viết “Kinh nghiệm nội tâm đối với người sắp chết là một ngọn cuồng phong quét sạch toàn thế giới, kể cả chính mình, một trận gió xoáy cuốn hút toàn vũ trụ”. iều đang xảy đến là phong đại đang tan vào tâm thức. Những ngọn gió đều tập hợp lại trong “gió nâng đỡ đời sống” nằm ở tim. Bởi thế, “dấu hiệu bí mật” là người chết thấy một ngọn đuốc hay đèn đỏ rực. Hơi thở vào càng nông cạn, hơi thở ra càng sâu. Ở thời điểm này, máu tụ lại đi vào trong “kinh mạch của sự sống” nằm chính giữa tim ta. Ba giọt máu lần lượt tụ lại, gây nên ba hơi thở ra cuối cùng. Rồi thình lình, hơi thở chúng ta chấm dứt. Chỉ một chút hơi ấm còn ở lại nơi tim ta. Mọi dấu hiệu của sự sống không còn, và đây là điểm mà sự xét nghiệm lâm sàng cho là “chết”. Nhưng những bậc thầy Tây Tạng nói đến một tiến trình bên trong vẫn còn tiếp diễn. Thời gian giữa sự ngưng thở và thời gian chấm dứt “hơi thở bên trong” được cho là “khoảng chừng bữa ăn”, tức khoảng 20 phút. Nhưng không có gì chắc chắn, và toàn thể tiến trình này có thể xảy ra rất nhanh… Tụng kinh Cho người mới mất 2. Vào Thân Trung Ấm Khi những giọt nước mắt khóc than cho cái chết của chúng ta rơi trên má người thân, cũng là lúc ta bước vào giai đoạn cuối của tiến trình chết. Ta rơi vào trạng thái hôn mê bất tỉnh trong một khoảng thời gian chừng 20 phút. Rồi thình lình ta tỉnh dậy trong trạng thái trung gian giữa cái chết và một tái sanh mới Thân trung ấm. Dân gian gọi là Linh Hồn người chết. Linh hồn của chúng ta trong cõi Trung ấm tái sanh mang một số đặc tính đặc biệt. Nó có đủ tất cả các giác quan. Nó vô cùng nhẹ, sáng suốt và di động. Sự bén nhạy của nó được nói là gấp 7 lần trong đời sống thực. Nó cũng có được một loại thần thông lặt vặt, không được ý thức kiểm soát, nhưng đem lại cho linh hồn người chết khả năng đọc được tâm người khác. Đặc điểm của Thân trung ấm Lúc đầu, linh hồn của ta sẽ có hình dáng giống như thân thể trong đời vừa qua. Hình dáng của nó hoàn hảo không một khuyết điểm và đang ở độ tuổi xuân xanh. Ngay cả khi bạn bị què quặt hay đau ốm trong đời sống, bạn vẫn có được linh hồn toàn hảo trong cõi Trung ấm tái sanh. Một trong những giáo điển cổ của Mật tông Dzogchen cho chúng ta biết rằng Linh hồn người chết có kích cỡ bằng một đứa bé từ 8 đến 10 tuổi. Do năng lực của tư duy khái niệm, gọi là “gió nghiệp”, linh hồn không thể ở yên dù chỉ trong chốc lát. Nó không ngừng di động. Nó có thể đi khắp nơi nó muốn, không bị trở ngại. Vì linh hồn không có cơ sở vật lý nên nó có thể đi xuyên qua tường vách hay núi. Có 2 nơi nó không thể đi qua Tòa kim cang của đức Phật và Thai mẹ. * Linh hồn có thể thấy suốt những vật thể có ba chiều. Nhưng vì thiếu tinh chất vật lý của cha mẹ, chúng ta không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Ta chỉ có chút ánh sáng mờ soi tỏ khoảng không gian ngay trước mặt. Chúng ta có thể thấy những linh hồn khác trong cõi Trung Ấm. Nhưng người sống không thấy chúng ta, ngoại trừ những người đã có thần thông nhờ thiền định. Bởi thế, chúng ta có thể gặp và nói chuyện vài giây phút thoáng qua với nhiều kẻ đang du hành trong thế giới Trung Ấm. Nghĩa là ta có thể giao tiếp với những kẻ chết trước chúng ta. Do sự có mặt của năm uẩn đang thành hình, nên linh hồn đối với chúng ta dường như chắc thực. Chúng ta vẫn còn cảm thấy nóng lạnh, đau đớn hay những cơn đói cồn cào. Giáo lý Trung Ấm dạy rằng linh hồn sống bằng mùi hương và rút dưỡng chất từ những đồ cúng được đem đốt. Ngoài ra nó cũng có thể hưởng được những đồ cúng đặc biệt nhân danh nó. Trong trạng thái này, hoạt động tâm ý rất nhanh. Tư tưởng liên tục trôi qua nhanh và chúng ta có thể làm một lúc nhiều công việc. Tâm tiếp tục duy trì những mẫu mực thói quen của nó Thói bám víu những kinh nghiệm và thói tin rằng mọi sự tuyệt đối là thực có. Bơ vơ trong cõi trung gian Suốt trong những tuần đầu trong cõi Trung Ấm. Linh hồn người chết có cảm tưởng rằng mình là một người đàn ông hay một phụ nữ. Hệt như khi ta còn sống. Chúng ta không hề nhận ra rằng mình đã chết. Chúng ta trở về nhà để gặp bà con và những người thân yêu. Ta cố nói với họ, sờ vai họ. Nhưng họ không trả lời, cũng không tỏ ra họ biết ta có ở đấy. Dù ta cố gắng bao nhiêu, cũng không gì làm cho họ chú ý ta được. Ta bất lực đứng nhìn họ khóc hay ngồi thẩn thờ với cõi lòng tan nát vì cái chết của ta. Ta lại còn cố một cách vô hiệu để xử dụng những đồ đạc của ta khi trước. Chỗ ta ngồi nơi bàn ăn không còn dành cho ta nữa. Những người thân bắt đầu bàn tính chôn cất và chia chác của cải của ta. Ta cảm thấy tức tối, bị thương tổn và hằn học “như một con cá quằn quại trên cát nóng”, Tử Thư nói. Nếu hết sức quyến luyến cái xác của mình, thậm chí ta lại còn cố nhập vào nó hay lảng vảng bên nó. Có trường hợp quá khích là Linh hồn người chết có thể lai vãng gần tài sản hay xác của họ hàng tuần. Thậm chí hàng năm hoặc nhiều năm mà vẫn chưa có thể nghĩ rằng mình đã chết. Chỉ khi ta thấy mình không có bóng in trên mặt đất, không in dấu chân bước. Hoặc không thấy hình phản chiếu trong gương ta mới vỡ lẽ ra … Và nội một nỗi kinh hoàng khi nhận ra mình đã chết, cũng đủ làm cho ta ngất xỉu. Ý thức mãnh liệt gấp bảy lần khi còn sống Trong cõi Trung Ấm tái sanh. Ta sống lại tất cả những kinh nghiệm của đời vừa qua. Ta ôn lại những kỷ niệm đã từ lâu phai mờ trong ký ức. Ta thăm lại những nơi chốn cũ, “dù chỉ là nơi ta chỉ có khạc nhổ lên đấy”. Cứ bảy ngày một lần, ta lại bắt buộc phải sống trở lại cái kinh nghiệm chết, với tất cả nỗi đau khổ của nó. Nếu ta đã chết một cách an bình, thì trạng thái tâm an bình đó được tái diễn. Nhưng nếu đó là một cái chết vật vã, sự vật vã ấy cũng được tái diễn. Nếu là một cái chết kinh hoàng, sự kinh hoàng đó cũng được tái diễn. Và nên nhớ rằng Mọi sự được tái diễn với một ý thức mãnh liệt gấp bảy lần lúc sống. Trong giai đoạn thoáng qua của Trung Ấm tái sanh, mọi nghiệp ác của các đời trước trở lại. Tin buồn là nó trở lại theo một cách cô đọng cường liệt, làm cho tâm ta rối bời. Cứ thế, linh hồn người chết một mình lang thang không ngừng qua thế giới Trung Ấm. Cô đơn và kinh hoảng như trong một cơn ác mộng. Và cũng hệt như trong mộng Ta tin rằng mình thực có một cái thân vật lý và mình thực sự hiện hữu. Tuy thế, tất cả những kinh nghiệm trong cõi Trung ấm tái sanh này chỉ do tâm ta biến ra. Đều là do nghiệp và những tập quán cũ của ta tái diễn. Phiêu du theo gió Nghiệp Những ngọn gió của tứ đại trở về và như Tulku Urgyen Rinpoche nói “Người ta nghe những âm thanh to lớn của đất, nước, lửa, gió. Có tiếng như núi lở sau lưng ta, hoặc tiếng con sông lớn gầm lên. Hoặc tiếng một khối lửa khổng lồ như hỏa diệm sơn, hoặc tiếng của một trận bão lớn”. Ta hoảng hốt cố chạy thoát những thứ này trong bóng tối kinh hoàng. Rồi đột nhiên trước mặt ta mở ra ba cái hố sâu thăm thẳm Trắng, đỏ, đen và “sâu và kinh khủng”. Tử Thư nói đây chính là tâm giận dữ, tham dục và ngu si của ta. Ta bị tấn công bởi những ngọn thác đổ, mưa đá bằng máu mủ. Bị ám ảnh bởi những âm thanh la hét của quỷ không đầu. Bị săn đuổi bởi những yêu quái và thú dữ chuyên ăn thịt. Cứ thế, ta không ngừng bị ngọn gió nghiệp cuốn đi. Ta không thể vin víu vào bất kỳ một căn cứ nào cả. Tử Thư nói “Vào lúc ấy, trận cuồng phong của nghiệp thức kinh hoàng, khó chịu xoáy lên một cách dữ tợn, từ đằng sau sẽ đẩy ngươi tới trước”. Bị ngốn ngấu bởi nỗi hoảng sợ, bị thổi giạt qua lại như những hạt nhị hoa bay trước gió. Ta lang thang một cách vô vọng qua cõi Trung Ấm. Bị cơn đói khát dày vò, ta tìm nơi trú ẩn chỗ này chỗ khác. Nhận thức của tâm ta thay đổi từng chặp, lúc vui lúc buồn. Bỗng tâm ta đâm ra khao khát có một cái xác thân vật lý nhưng lại không thể tìm được, làm cho ta lại rơi vào đau khổ. Phán xét Thiện – ác Toàn thể khung cảnh ấy đều do nghiệp ta un đúc. Cũng như thế giới trung gian có thể chứa đầy những ảnh tượng ác mộng do vọng tưởng chúng ta tạo nên. Nếu bình thường lúc sống, ta có hành động tích cực, thì kinh nghiệm và nhận thức chúng ta trong cõi Trung Ấm sẽ là hạnh phúc và an lạc. Nếu đời ta tác hại và làm người khác đau khổ thì kinh nghiệm trong cõi Trung Ấm của ta sẽ đầy đau đớn buồn lo. Bởi thế, Tử Thư nói rằng Linh hồn người chết của những người đánh cá, đồ tể, thợ săn đều bị tấn công bởi những hình ảnh ghê rợn của những nạn nhân của họ trước kia. Vài người nghiên cứu kỹ kinh nghiệm cận tử, nhất là khi nghiên cứu những “cuộn phim đời” – Một đặc điểm chung của tất cả mọi người chết đi sống lại – đã tự hỏi “Làm sao tưởng tượng nổi sự kinh khủng của những kinh nghiệm trong cõi Trung Ấm của một nhà độc tài hay của một kẻ chuyên tra tấn? “Cuộn phim đời” cho ta thấy rằng, sau khi ta chết Ta có thể kinh quá tất cả những nỗi đau khổ mà ta đã gieo, trực tiếp hay gián tiếp” . 49 ngày lang thang Linh hồn người chết tồn tại trung bình 49 ngày và ít nhất là một tuần. Nhưng cũng còn tùy, giống như hiện tại có người sống tới trăm tuổi, trong khi kẻ khác chết non. Một số lại còn bị kẹt trong thế giới trung gian để thành ma quỷ. Dudjom Rinpoche thường giải thích rằng suốt trong 21 ngày đầu của thời gian Trung Ấm, linh hồn người chết vẫn còn một số ấn tượng mạnh về đời sống vừa qua. Bởi thế đây là giai đoạn quan trọng nhất để người sống giúp đỡ người chết. Sau đó, đời sống tương lai của bạn dần dần thành hình và trở thành ảnh hưởng chính. Linh hồn chúng ta phải chờ đợi trong thế giới trung gian cho đến khi nào nghiệp ta bắt liên lạc được với cha mẹ tương lai. ôi khi tôi nghĩ về Cõi giới này như một thứ hành lang chuyển tiếp, trong đó linh hồn người đã chết có thể chờ đợi đến 49 ngày trước khi chuyển sang đời sống mới. Nhưng có hai trường hợp đặc biệt không cần phải đợi trong cõi Trung Ấm, bởi tính cách cường liệt của nghiệp lực họ đẩy ngay linh hồn họ vào tái sanh mới. Trường hợp đầu tiên là những người đã sống một đời vô cùng lợi lạc và tích cực, đã tu luyện tâm đến trình độ năng lực chứng ngộ của họ sẽ đưa họ trực tiếp vào một tái sanh tốt đẹp. Trường hợp thứ hai là những người đã sống cuộc đời tiêu cực, tác hại. Họ đọa lạc rất nhanh xuống đời tái sanh kế tiếp, tới bất cứ ở đâu. Sự phán xét Một vài mô tả về cõi Trung Ấm có nói đến một cảnh xét xử linh hồn Một loại “quay lại cuộn phim đời” giống như sự phán xét sau khi chết ở trong nhiều nền văn hóa của nhân loại. Lương tâm tốt của bạn là một vị thiên thần hộ mạng màu trắng. Nó đóng vai cố vấn bào chữa, kể lại những việc tốt bạn đã làm. Lương tâm xấu của bạn là một con quỷ đen, trình lên vụ án để xét xử. Tốt và xấu được tính thành những hòn sỏi trắng đen. “Thần chết” hay Diêm vương chủ tọa phiên xử. Khi ấy họ soi vào kính nghiệp để làm cuộc phán xét. Màn phán xét này có vài tương đồng với “cuộn phim cuộc đời” ở kinh nghiệm cận tử. Cuối cùng, mọi cuộc phán xét đều xảy ra ngay trong tâm ta. Chúng ta đồng thời là quan tòa và bị cáo. Raymond Moody nói “iều đáng chú ý là sự phán xét không phải đến từ nơi thực thể ánh sáng mà lại đến từ cá nhân người bị xét xử”.Tư duy về đời sau Cảnh phán xét thiện ác linh hồn cũng chứng tỏ rằng trong sự phân tích tối hậu Chính cái động lực sau mọi hành động của chúng ta mới là điều quan trọng. Chúng ta không thể thoát khỏi hậu quả của những hành động, lời nói và ý nghĩ của ta. iều này có nghĩa chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm không những về cuộc đời hiện tại, mà cả những đời tương lai của ta nữa. Năng lực siêu việt Vì trong cảnh giới Trung Ấm, tâm ta rất nhẹ nhàng linh động và bén nhạy. Vậy nên bất cứ tư tưởng nào khởi lên Tốt hay xấu, đều có ảnh hưởng và năng lực ghê gớm. Vì không có một cơ thể vật lý làm nền tảng, nên những ý tưởng trở thành thực tại. Hãy tưởng tượng sự buồn bã giận dữ khốc liệt mà ta có thể cảm thấy khi trông thấy người sống làm đám tang cho ta quá sơ sài. Hoặc bà con tham lam đang tranh giành những vật sở hữu của ta. Hoặc bạn bè mà ta rất yêu mến bây giờ đang nói về ta một cách khinh miệt. Một tình huống như vậy có thể rất nguy hiểm. Vì phản ứng bạo hành của ta có thể đưa linh hồn ta thẳng đến một tái sanh bất hạnh. Như vậy, năng lực mãnh liệt của tâm ta là vấn đề then chốt trong Trung Ấm tái sanh. Cái giai đoạn cao điểm này hoàn toàn phơi bày chúng ta ra giữa những thói quen và khuynh hướng cố hữu mà ta đã để cho tăng trưởng và thống trị đời ta. Nếu bạn không kiểm soát những khuynh hướng ấy ngay bây giờ trong khi sống. Nếu bạn không ngăn chúng xâm chiếm tâm bạn. Trong Trung Ấm tái sanh linh hồn của bạn sẽ thành nạn nhân tội nghiệp của chúng, bị mãnh lực của chúng đưa đẩy. Ranh giới giữa Giải thoát – Đọa lạc Một sự giận dữ nhỏ nhặt trong trạng thái Trung Ấm cũng có thể có một ảnh hưởng tai hại. Bởi thế mà theo truyền thống, người đọc Tử Thư cho bạn lúc sắp chết phải là một người mà bạn có quan hệ tốt đẹp. Nếu không, nội một việc nghe âm thanh tiếng nói của y cũng đủ làm cho bạn nổi tam bành. Điều này sẽ có những hậu quả vô cùng khốc hại cho linh hồn người đã chết. Giáo lý cho ta thấy nhiều mô tả về tính chất sống sít của cái tâm ở trong trạng thái Trung Ấm Tâm ta lúc ấy giống như một thỏi sắt nung đỏ, sẵn sàng uốn bất cứ kiểu nào bạn muốn. Bất cứ hình dáng gì nó được uốn nắn, nó sẽ mau chóng thành hình y như vậy. Một tư tưởng tích cực duy nhất trong trạng thái Trung Ấm có thể trực tiếp dẫn đến giác ngộ. Một phản ứng tiêu cực duy nhất có thể làm bạn chìm vào đau khổ lâu dài. Tử thư cảnh cáo chúng ta một cách mạnh mẽ như sau ến đây là ngã rẽ đôi đường lên cao và xuống thấp Đây là lúc mà chỉ cần lướt vào sự lười biếng một chút ngươi cũng đủ chịu khổ miên viễn. Đây là lúc mà chỉ cần tập trung một chút ngươi cũng sẽ hưởng được hạnh phúc lâu bền. Hãy chú tâm không tán loạn, hãy nỗ lực kéo dài hậu quả thiện nghiệp ! Sẽ siêu thoát nếu như… Trong Trung Ấm tái sanh, các cõi Phật không hiện ra một cách tự nhiên. Tuy nhiên, chỉ cần nhớ đến các vị Phật, bạn cũng có thể đi thẳng đến các cõi ấy bằng năng lực tâm bạn. Và do nhân duyên này, bạn tiến đến giải thoát. Giáo lý Mật tông Tây Tạng này cho ta thấy niệm Phật là vô cùng trọng yếu. Trong cảnh giới này, chỉ cần linh hồn niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật thôi, ngay lập tức sẽ vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ. Giáo lý kỳ đặc này xác quyết một sự thật hiển nhiên về Bản Nguyện Niệm Phật Bạn niệm Phật là chắc chắn được vãng sanh – Tuệ Tâm. Nếu bạn có thể niệm danh hiệu một vị Phật, vị ấy liền hiện ra trước bạn. Nhưng nên nhớ, mặc dù các khả năng là vô giới hạn, chúng ta vẫn phải có sự tự chủ tâm ý trong Trung Ấm này. Vì điều này vô cùng khó khăn khi tâm ta ở giai đoạn này hết sức bén nhạy, phân tán và bất an. Theo Tạng Thư Sống Chết Tụng kinh Cho người mới mất 3. Thực hành Bạn đọc đến đây ắt đã hiểu được nỗi khổ hải của người thân sau khi chết là như thế thế nào rồi. Giờ là cách ta tìm cách giúp đỡ họ. Theo kinh Địa Tạng, Bồ Tát dạy “Những chúng sinh ở hiện tại hay vị lai, lúc sắp mạng chung mà nghe đặng danh hiệu của một ức Phật, danh hiệu của một Bồ tát hay danh hiệu của một Bích Chi Phật, thời không luận là có tội cùng không tội đều được giải thoát cả. Như có người nam cùng người nữ nào lúc sanh tiền không tu tạo phước lành mà lại gây lấy những tội ác, sau khi người mạng chung, hàng thân quyến kẻ lớn người nhỏ vì người chết mà tu tạo phước lợi làm tất cả việc về Thánh đạo, thời trong bảy phần công đức người chết nhờ đặng một phần, còn sáu phần công đức thuộc về người thân quyến hiện lo tu tạo đó. Bởi vì cớ trên đây, nên những người thiện nam cùng thiện nữ ở hiện tại và vị lai, nghe lời nói vừa rồi đó nên cố gắng mà tu hành thời đặng hưởng trọn phần công đức.” Nên Tụng Kinh gì cho người mới mất Câu trả lời là còn tùy. 1. Nếu người thân của bạn trước khi mất có tu học Phật pháp Bạn phải tụng đọc theo Pháp mà họ từng tu tập, nghĩa là Khin còn sống họ trì chú thì nào thì bạn trì chú ấy. Đừng làm khác đi, nghĩa là họ tụng chú đại bi thì bạn cũng chỉ nên tụng chú Đại Bi, đừng tụng chú khác. Khi còn sống họ tụng kinh gì thì bạn tụng kinh ấy. Nghĩa là họ thường tụng kinh A Di Đà thì bạn chỉ nên tụng kinh A Di Đà, đừng tụng kinh khác. Khi còn sống, họ tu Tịnh Độ, niệm Phật cầu vãng sanh, thì bạn chỉ nên niệm Phật. Sau đó hồi hướng công đức giúp họ được cao đăng Sen Phẩm nơi cõi Cực Lạc. 2. Nếu khi còn sống họ chưa từng biết đến Phật pháp. Trường hợp này chiếm đa số trên thế gian, và để giúp họ một cách tốt nhất thì bạn nên tụng Kinh Địa Tạng. Sức siêu độ vong linh của Kinh Địa Tạng vô địch ở chỗ Vong linh nghe kinh sẽ minh lý tội phước, nhân quả. Nhờ minh lý mà bức màn vô minh che phủ tâm thức của họ được gỡ bỏ. Họ minh lý ắt sẽ phát tâm sám hối tội lỗi của mình. Một niệm sám hối ấy khởi lên ngay lập tức sẽ được sức Bổn Nguyện của Ngài Địa Tạng nhiếp hộ. Nhờ đó sẽ được siêu thoát về các cảnh giới lành. Đa phần sẽ tái sanh lên các cõi trời của chư Thiên. Nếu tái sanh nơi cõi người cũng sẽ vào được nơi tốt lành, lớn lên sẽ gặp duyên học Phật. Như vậy, tụng Kinh Địa Tạng là câu trả lời cho câu hỏi Nên tụng kinh gì cho người mới mất! Cách tụng kinh cho người mới mất Trước khi tụng kinh cho người mới mất, bạn phải khắc cốt ghi tâm điều này Chớ sát sinh trong nhà, dù con trùng con kiến cũng không nên giết chúng. Chỉ nên cúng chay, tuyệt đối không cúng mặn. Tại sao thế? Bởi sát sinh cúng mặn sẽ khiến tội của người mất tăng thêm rất nhiều lần. Người tụng kinh phải ăn chay trường, giữ giới và kiêng ngũ vị tân; Ít nhất là trong bao nhiêu ngày phát nguyện tụng kinh đó phải kiêng cữ. Tại sao thế? Vì nếu bạn ăn mặn tụng kinh sẽ chẳng có cảm ứng gì. Nếu ăn ngũ vị tân thì thân thể hôi hám, chư thiên và hộ pháp không đến hộ trì. Người tụng kinh trước khi tụng tắm rửa sạch sẽ, nếu có gia đình thì trong thời gian tụng kinh nên kiêng quan hệ. Lý của việc này hơi vi tế, nói không được, tốt nhất là nên như thế. Bởi người chết ở trong giai đoạn này vô cùng bơ vơ, khổ sở, đói khát…họ chỉ mong con cháu giúp đỡ mình mà không cách chi báo cho chúng nó biết được! Cho nên khi tụng kinh phải cố gắng tụng cho trọn vẹn cả bộ, đừng hời hợt trì tụng, vong linh biết họ rất đau lòng và dễ khởi tâm sân hận. Một niệm sân hận khởi lên trong cảnh giới Thân Trung Ấm này vô cùng khủng khiếp, nó có thể khiến họ đọa ngay lập tức vào trong ba ác đạo!” Bạn tham khảo thêm Cách tụng kinh tại nhà. * Khởi đầu bạn lau dọn bàn thờ cho sạch sẽ thanh tịnh. Nếu bạn sợ thì thể tham khảo bài viết này cho hết sợ Cách tỉa chân nhang và lau dọn bàn thờ. Mỗi ngày bạn nên cố định thời khóa tụng kinh. Ví như ngày 2 thời sáng tối, buổi sáng bắt đầu từ 6h thì ngày nào cũng phải bắt đầu từ 6h. Chớ nay 6h mai 7h, không tốt đâu, quan trọng lắm đấy. Kinh sách thỉnh về nhà phải cất đặt nơi cao ráo, sạch sẽ, không được vứt bừa bãi, chư Hộ pháp quở thì gay go lắm. Nếu điều kiện chẳng thỉnh được kinh thì tụng bản online cho lành, khỏi phải lo cất đặt cũng tốt. Lễ lạt trên bàn thờ chỉ cần 01 lọ hoa tươi, 01 ly nước sạch, chút ít bánh hoặc trái gọi là. Tuyệt đối không để rượu, vàng mã hay tiền bạc lên bàn thờ. Kiếm 1 cái kệ hoặc bàn, sạch sẽ để đặt kinh lên đó cho dễ nhìn dễ tụng. * Trước khi khai kinh bạn thắp hương, chắp tay quỳ xuống rồi âm thầm triệu thỉnh vong linh bằng cách khấn thế này “Nam mô A Di Đà Phật! Hôm nay ngày…tháng…năm….Con phát nguyện vì vong linh…vì pháp giới chúng sanh và vì hết thảy các linh hồn oan gia trái chủ của vong linh…mà tụng kinh Địa Tạng. Con cầu nguyện ơn trên Tam Bảo, chư Tôn Pháp Hiền Thánh Tăng, chư Tôn Long Thần Hộ Pháp từ bi phóng quang gia hộ, giúp cho vong linh…về nơi đây, cùng với con tụng Kinh Địa Tạng. Nguyện cho hết thảy đồng lìa khổ được vui, đồng vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ. Nam mô A Di Đà Phật!” Đúng giờ tụng kinh hằng ngày, bạn ngồi hoặc quỳ rồi bắt đầu tụng kinh. Qùy tụng thì công đức lớn hơn nhưng rất khó kham nhẫn. Do đó bạn tùy theo sức của mình mà quỳ hoặc ngồi tụng. Khi tụng xong thì phát nguyện hồi hướng bằng cách đọc như vầy “Nam mô A Di Đà Phật! Con nguyện hồi hướng công đức tụng kinh này cho vong linh….cho pháp giới chúng sanh và cho hết thảy các linh hồn oan gia trái chủ của vong linh. Nguyện cho hết thảy đồng lìa khổ được vui, đồng vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ. Nam mô A Di Đà Phật”. Hồi hướng xong bạn chắp tay lạy ba lạy rồi lui ra. Cách niệm Phật hồi hướng cho người mới mất Nếu bạn do điều kiện không thể ăn chay để tụng kinh cho người mới mất thì bạn nên niệm Phật. Thực ra niệm Phật là diệu pháp, có thể khiến cho người mới mất được ra khỏi sanh tử luân hồi. So với tụng kinh thì niệm Phật hồi hướng cho người mới mất tốt hơn gấp ngàn lần. Chỉ là, pháp này dễ quá nên hiếm người có thể tin nhận được. Bởi vậy nên chư Tổ thường than “Chúng sanh cang cường khó độ” là như thế! Do đó Nếu bạn do điều kiện không thể ăn chay để tụng kinh cho người mới mất thì bạn nên niệm Phật. Theo Mật giáo thì trong vòng 49 ngày, vong linh thường ở trong cảnh giới Thân trung ấm. Người thân lúc này niệm Phật cho họ tốt hơn nhiều so với tụng kinh. Ở Việt Nam ta đa phần mọi người không biết, cứ tưởng tụng kinh là tốt mà chẳng biết rằng Vong linh trong vòng 49 ngày này nếu thấy con cháu vì mình mà niệm Phật, họ sẽ về nương theo đó mà tu tập. Chỉ cần họ phát tâm niệm Phật 1 câu thôi, sẽ thấy đức A Di Đà cùng Thánh chúng hiện ra trước mặt. Khi ấy vong linh phát một niệm xin quy y là vãng sanh về Cực lạc, vĩnh viễn ra khỏi sanh tử luân hồi. Đây là giáo lý của Mật giáo, không phải Tuệ Tâm tôi bịa ra đâu nhé. Như thế, bạn có thể niệm Phật hồi hướng cho người mới mất như sau * 1. Bạn tùy theo sức của mình mà chia thời khóa. Nếu có thời gian thì ngày 2 thời, buổi sáng và buổi tối, mỗi thời niệm Phật 1h . Nên niệm Phật vào một thời gian cố định. Ví như 6h sáng bắt đầu chẳng hạn, thì ngày nào cũng bắt đầu từ 6h sáng; Bạn ngồi trước bàn thờ, nếu nhà chẳng có bàn thờ thì chọn một phòng sạch sẽ, gọn gàng và thanh tịnh. Nếu có hương thì thắp 1 nén, nếu chẳng có thì thôi. 2. Thắp hương xong, bạn âm thầm triệu thỉnh bằng cách khấn thế này “Nam mô A Di Đà Phật! Hôm nay ngày tháng năm…con vì vong linh tên là…mà phát nguyện niệm hồng danh Nam mô A Di Đà Phật. Con cầu nguyện đức Phật A Di Đà từ bi phóng quang gia hộ cho vong linh…được khai tâm, được về nơi đây, cùng với con niệm hồng danh của Ngài. Nguyện đức Phật từ bi gia bị cho vong linh…nghe được danh hiệu của Ngài và phát tâm niệm danh hiệu của Ngài. Nam mô A Di Đà Phật”. Khấn như thế xong thì bạn tụng nghi thức này Nghi thức niệm Phật. * 3. Tụng xong nghi thức ấy, bạn ngồi niệm Phật thêm khoảng 1h. Niệm Phật xong thì hồi hướng như thế này “Nam mô A Di Đà Phật! Con nguyện hồi hướng công đức niệm Phật này cho hương linh tên là…và Pháp giới chúng sanh. Con cầu nguyện đức từ Phụ phóng quang gia hộ cho tất cả cùng lìa khổ được vui, đồng vãng sanh Tây phương Tịnh độ. Nam mô A Di Đà Phật” Cách này dành cho người không có điều kiện để ăn chay. Tuy thế, nếu không ăn chay được thì cũng phải kiêng Ngũ vị tân, giữ các giới sát đạo dâm vọng… Thường thì trong vòng 49 ngày vong linh phát tâm niệm Phật theo bạn thì sẽ được vãng sanh; nếu chẳng chịu niệm Phật thì cũng nhờ phước đức vô lậu nơi danh hiệu Phật, sẽ được vãng sanh về các cõi lành. Cách tụng kinh cho người mới mất Tuệ Tâm 2021. Tóm tắt nội dung [Ẩn]KHÁI NIỆM KINH CẦU SIÊU LÀ GÌ?Khái niệm cầu siêu là gì?Ý NGHĨA CỦA KINH CẦU SIÊU VÀ CÁC BÀI KINH TỤNG TRONG ĐÁM TANGÝ nghĩa của lễ cầu siêuKINH VĂN - KINH CẦU SIÊUNguồn gốc của kinh văn - kinh cầu siêuAI LÀ NGƯỜI CÓ THỂ ĐỌC KINH CẦU SIÊU?Ai là người có thể tụng kinh cầu siêu?Ngoài các bài kinh tụng trong đám tang thì kinh cầu siêu cũng là một nghi thức được thực hiện đều đặn sau khi con người giã từ nhân thế. Với nhiều hình thức cầu siêu khác nhau, các bài kinh trong đám tang cho đến kinh cúng cơm hàng ngày dường như được quan tâm hơn trước đây. Đặc biệt là đối với những gia đình theo Phật Giáo. Vậy, cầu siêu là gì? Và ý nghĩa của hoạt động này như thế nào? Cầu siêu và các bài kinh tụng trong đám tang KHÁI NIỆM KINH CẦU SIÊU LÀ GÌ? Kinh cầu siêu theo nghĩa đen tức là một sự kiện Dharma, tức là một thực hành khá quan trọng trong Phật Giáo tương tự như việc cúng tế để tưởng nhớ về người đã mất. Cầu siêu tức là cầu nguyện một cách chân thành cho sự yên nghỉ hay cầu nguyện cho việc siêu thoát của linh hồn người đã chết. Đây đồng thời cũng là một cơ hội để người thân và bạn bè đang sống có thể xác nhận lại được mối quan hệ mà người ra đi đã mang lại. Khái niệm cầu siêu là gì? Qua hình thức cầu siêu, những người đang sống cũng sẽ nhận ra được họ nợ người quá cố những gì để bày tỏ lòng thành và sự biết ơn đối với người đã khuất. Đây cũng là lúc phản ánh sâu sắc nhất chính bản thân họ trong sự kết nối đối với người đã khuất. Ngoài kinh cầu siêu thì các bài kinh tụng trong đám tang cũng là một yếu tố đóng vai trò rất quan trọng. Thời điểm người đó trút hơi thở cuối cùng để về với đất mẹ cũng là lúc những bài kinh này được cất lên. Đây đồng thời cũng là một sự khởi đầu mới cho người đó ở một thế giới khác. Ý NGHĨA CỦA KINH CẦU SIÊU VÀ CÁC BÀI KINH TỤNG TRONG ĐÁM TANG Người ta thầm tin rằng, kinh cầu siêu sẽ làm gia tăng công đức của người đã khuất để họ có thể được tái sinh ở trong những vùng đất thanh tịnh và thuần khiết nhất. Vì vậy, kinh cầu siêu thường được con người ví là những bài kinh cầu mong sự tốt lành. Nhìn chung, cầu siêu không chỉ tốt cho người đã mất mà còn giúp người đang sống tích được công đức cho chính mình. Nếu các bài kinh tụng trong đám tang chỉ được sử dụng trong thời điểm tang lễ diễn ra thì kinh cầu siêu có thể sử dụng trong bất cứ trường hợp nào. Thông thường ở trong Phật Giáo sẽ có những buổi lễ tụng kinh cầu siêu được tổ chức. Những buổi cầu siêu này sẽ giúp cho những người quá vãng hiểu và ngộ ra được những điều chân lý. Thông qua đó, họ sẽ thoát khỏi được những cảnh giới tối tăm, những đọa đày mà siêu sinh về với nơi tịnh độ. Ý nghĩa của lễ cầu siêu KINH VĂN - KINH CẦU SIÊU Kinh Văn là bài kinh cầu siêu được sử dụng trong Phật Giáo. Bài kinh này bắt nguồn từ bài “Sám Cầu Siêu” của Đại Đao Tam Kỳ Phổ Độ đi thỉnh từ Chi Minh Lý hiện tại chính là Tam Tông Miếu. Bài kinh này với mục đích là cầu Đức Chuẩn Đề Bồ Tát ban cho và truyền kinh để phổ độ. Đến khi Đạo Cao Đài đã được khai sáng thì bên Hội Thánh cử một đoàn phái có 4 người đến Minh Lý Đạo để thỉnh bài kinh, trong số đó có bài kinh cầu siêu. Kể từ đó về sau, kinh cầu siêu được tụng đọc cho những Chơn linh mới mất hoặc đọc ở trong những tuần cầu siêu cầu xin ân xá cho vong hồn của người chết có thể siêu thoát. Nguồn gốc của kinh văn - kinh cầu siêu Trong quá trình cầu siêu, người thân trong gia đình và thân nhân gần gũi phải tập trung để cùng nhau thành tâm cầu nguyện cho linh hồn người đã khuất được nhẹ nhàng. Lễ cầu siêu được tổ chức thường là cầu mong cho vong linh được phần nào được nhẹ nhàng hơn chứ không hẳn cứ cầu là sẽ được siêu thoát. Vong linh người chết có siêu thoát được hay không là phụ thuộc vào nghiệp quả nặng hay nhẹ mà khi còn sống người này đã gây ra. AI LÀ NGƯỜI CÓ THỂ ĐỌC KINH CẦU SIÊU? Khác với các bài kinh tụng trong đám tang thường sẽ do thầy cúng hoặc sư thầy đọc. Thế nhưng kinh cầu siêu thì có thể là thầy cúng, sư thầy hoặc trực tiếp thân nhân người đã mất tụng đọc đều được. Miễn sao, khi đọc kinh cầu siêu họ thể hiện được sự thành tâm cầu nguyện với bề trên mong cho người thân đã mất của họ được ra đi thanh thản, nhẹ nhàng và sớm được cầu siêu. Ai là người có thể tụng kinh cầu siêu? Nhiều người cho rằng, kinh cầu siêu nên là do người thân trong nhà đọc tụng để thể hiện được tâm ý chân thành hơn. Chính thân nhân của người đã khuất trong quá trình tụng kinh cầu siêu cũng đã giúp cho tâm hồn mình nhẹ nhàng hơn và đồng thời cũng là đang tự cầu siêu cho chính mình sau này. Tụng kinh cầu siêu hay các bài kinh tụng trong đám tang từ lâu đã trở nên quá đỗi quen thuộc đối với phong tục của các gia đình người Việt khi trong gia đình có người mất. Khi đã hiểu được ý nghĩa, sự quan trọng và giá trị tâm linh mà các bài kinh mang lại, chắc chắn trong mỗi chúng ta đều sẽ muốn và tìm hiểu về những bài kinh này. Tóm tắt Kinh Cầu Siêu A Di Đà Kinh Tụng - Nghe nhạc hay online mới nhất chất lượng cao Bạn đang xem Top 6 bài kinh cầu siêu cho người chết mp3 mới nhất 2021 2. Kinh Cầu Siêu - Thầy Thích Huệ Duyên - Zing MP3 Tác giả Đánh giá 3 ⭐ 51385 lượt đánh giá Đánh giá cao nhất 5 ⭐ Đánh giá thấp nhất 3 ⭐ Tóm tắt Nghe nhạc miễn phí - Tải nhạc chất lượng cao 3. SÁM CẦU SIÊU - THICH TRI THOAT - Zing MP3 Tác giả Đánh giá 4 ⭐ 51281 lượt đánh giá Đánh giá cao nhất 5 ⭐ Đánh giá thấp nhất 2 ⭐ Tóm tắt Nghe nhạc miễn phí - Tải nhạc chất lượng cao 4. Cha mẹ mất tụng kinh gì để cầu siêu? - Tác giả Đánh giá 4 ⭐ 43096 lượt đánh giá Đánh giá cao nhất 5 ⭐ Đánh giá thấp nhất 2 ⭐ Tóm tắt Khi trong gia đình có người thân mất, thông thường người ta hay phát nguyện tụng Kinh Địa Tạng hoặc Kinh Di Đà hay Kinh Vu Lan Báo Hiếu... Điều này, còn tùy theo căn cơ, sở nguyện và ý thích của những thân nhân trong gia đình. Tác giả Đánh giá 5 ⭐ 11094 lượt đánh giá Đánh giá cao nhất 5 ⭐ Đánh giá thấp nhất 4 ⭐ Tóm tắt Cầu siêu là một nghi thức tâm linh quan trọng, giúp hương linh thoát khỏi cảnh lang thang vất vưởng, siêu sinh Tịnh độ đồng thời cũng giúp tâm người sống thanh thản và cuộc sống an bình, suôn sẻ. Dưới đây là cách tụng kinh cầu siêu tại nhà mà các Phật tử cần biết. 6. MP3 Thích Trí Huệ 2015 trở về trước Tác giả Đánh giá 5 ⭐ 11035 lượt đánh giá Đánh giá cao nhất 5 ⭐ Đánh giá thấp nhất 5 ⭐ Tóm tắt Bài viết về MP3 Thích Trí Huệ 2015 trở về trước. Đang cập nhật... Minh AnhAdmin ơi, Mình muốn tìm hiểu về bài kinh chú đại bi có ý nghĩa gì, admin có thể viết bài về chủ đề đó được không ạ? - - hôm nay - -AdminChào bạn nha, Mình đã viết một bài viết về bài kinh chú đại bi có ý nghĩa gì cũng như một chủ đề khá gần giống Top 9 bài kinh chú đại bi có ý nghĩa gì mới nhất 2021, bạn có thể đọc tại đây - - hôm nay - -Xem thêm Thông Tin Mới Về Game Thế Giới Mở Online Pc Hay Và Đáng Chơi Nhất Hiện Nay 2020Quang NguyễnMình có đọc một bài viết về bài kinh cầu siêu cho người chết mp3 hôm qua nhưng mình quên mất link bài viết. Admin biết link bài đó không ạ? - - hôm nay - -AdminCó phải bạn đang nói đến Top 6 bài kinh cầu siêu cho người chết mp3 mới nhất 2021 ?

kinh cầu siêu cho người mới chết